• Ẩm Thực Nhật Bản.

  • NHẬT BẢN, VĂN HÓA ỨNG XỬ.

  • Giao thông Nhật Bản. Tàu shinkansen.

  • NHẬT BẢN, NÉT ĐẶC TRƯNG RIÊNG KHÔNG THỂ NÀO NHẦM LẪN.

New Post

Rss

Showing posts with label NEWS AND BLOG. Show all posts
Showing posts with label NEWS AND BLOG. Show all posts
Những điều thú vị về lễ hội Sapporo Nhật Bản

Những điều thú vị về lễ hội Sapporo Nhật Bản

Những điều thú vị về lễ hội Sapporo Nhật Bản

Trong tháng lạnh nhất trong năm, vé nóng nhất ở Nhật Bản, và có lẽ cả thế giới, là cho lễ hội Sapporo Tuyết trên Japans đảo cực bắc của Hokkaido. Hơn hai triệu du khách từ khắp nơi trên thế giới đổ về. Vốn Hokkaidos để xem nó chuyển thành sáng lấp lánh, lấp lánh, lấp lánh và thế giới của một nơi chốn thần tiên đông lạnh. Đối với một tuần mỗi tháng hai, các tòa nhà chọc trời của Sapporo trở nên trội hơn hẳn bởi dinh thự và các bức tượng tuyết đông lạnh hình thành một thành phố thứ hai ở Công viên Odori và các đường phố ở đôi chân của mình. Tác phẩm điêu khắc đá của quá khứ đã mô tả tất cả mọi thứ từ ngôi đền cổ của Nhật Bản, samurai, và con rồng để các vận động viên đương đại, thiếu nữ băng, nhân vật chính trị, và năm mươi chân khủng long cao. Lễ hội Tuyết hiện nay là hậu duệ của một năm 1950 lễ hội nhỏ hơn nhiều, nỗ lực của một nhóm học sinh trung học Sapporo đã xây dựng sáu bức tượng tuyết trong Odori Park và rất ấn tượng các khu du khách rằng truyền thống tiếp tục. Năm năm sau, Tự Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản đặt tại Makomanai cơ sở giới thiệu, như một bài tập đào tạo, kỹ thuật cho việc xây dựng các tác phẩm điêu khắc tuyết khổng lồ đặc trưng của Lễ hội Tuyết ngày hôm nay. Lễ hội Tuyết Địa điểm Cơ sở Makomanai hiện là một trong ba địa điểm chính cho Liên hoan, và các trang web của các tác phẩm điêu khắc lớn nhất; các trang web thứ ba, nơi mà sự cạnh tranh khắc đá được tổ chức, nằm ​​trong quận Sapporos Susukino. Trong năm 1972 Winter Olympic Games ở Sapporo, Lễ hội Tuyết được quốc tế ca ngợi, và Tượng thi Tuyết bắt đầu hai năm sau đó. Lễ hội tuyết thực sự là một nỗ lực cộng đồng, với các nhóm dân cư cả hai tạo ra tác phẩm điêu khắc băng và khách du lịch hỗ trợ, đặc biệt là người khuyết tật. Họ cũng cung cấp thông tin du lịch và hành động như thông dịch viên cho sự tràn ngập của khách nước ngoài. Đặt phòng khách sạn cho lễ hội tuyết nên được thực hiện ít nhất sáu tháng trước. Khách sạn gần Lễ hội Tuyết Các Korakuen Hotel Sapporo cung cấp chỗ ở bốn ngôi sao thuận tiện cho tất cả các công viên và các khu vực danh lam thắng cảnh Sapporos, và nằm là lý tưởng cho du khách thương mại
Ẩm thực Nhật Bản, 7 loại SUSHI đặc trưng cho văn hóa ẩm thực Nhật bản

Ẩm thực Nhật Bản, 7 loại SUSHI đặc trưng cho văn hóa ẩm thực Nhật bản

Ẩm thực Nhật Bản, 7 loại SUSHI đặc trưng cho văn hóa ẩm thực Nhật bản

Nhật Bản được xem là một trong những đất nước tiêu thụ hải sản hàng năm lớn nhất thế giới, mà trong đó tỷ lệ sử dụng trong việc chế biến các món ăn liên quan đến Sushi và Sashimi chiếm đến 2/3 trong số tổng lượng tiêu thụ. Cùng điểm qua 7 món Sushi nổi tiếng của trong văn hóa ẩm thực Nhật bản, đất nước kỳ lạ:

1. Nigiri-zushi


Ẩm thực Nhật Bản, 7 loại SUSHI đặc trưng cho văn hóa ẩm thực Nhật bản
Nigiri-zushi

Là sự đa dạng và nổi tiếng nhất của sushi, nó bao gồm một miếng cá hoặc hải sản (hoặc thực vật hoặc thậm chí thịt) được đặt trên một ngón tay thuôn dài gạo nhẹ dấm, thường dày dạn với một thoa của wasabi. Cá thường để sống đang tươi; động vật có vỏ đôi khi nấu chín.
Khi trứng cá hay nhím biển là đứng đầu, toàn bộ quần thể được gói trong rong biển khô (nori) để giữ cho nó còn nguyên vẹn, điều này được gọi là gunkan-maki. Nigiri-zushi thực sự là một đặc sản khu vực Tokyo, và nó còn được gọi là Edomae-zushi, “Edo” là trước năm 1868 tên cho Tokyo.

2. Maki-zushi


Ẩm thực Nhật Bản, 7 loại SUSHI đặc trưng cho văn hóa ẩm thực Nhật bản

Được thực hiện với một chiếc chiếu tre, được sử dụng để tạo thành các dải cá ngừ, dưa chuột hoặc các thành phần khác cùng với một khối lượng gạo dấm vào dài, cuộn rong biển phủ. Các cuộn sau đó được cắt thành lát mỏng.

3. Futo-maki


Ẩm thực Nhật Bản, 7 loại SUSHI đặc trưng cho văn hóa ẩm thực Nhật bản
Là một biến thể mà các cuộn là béo hơn nhiều so với bình thường, và theo truyền thống đầy sữa trứng trứng, bầu ngâm và bit của rau.

4. Temaki


Ẩm thực Nhật Bản, 7 loại SUSHI đặc trưng cho văn hóa ẩm thực Nhật bản

Tương tự như maki-zushi, ngoại trừ việc nó được làm bằng tay và sản phẩm hình nón hoàn thành được ăn bằng tay, có hoặc không có nước tương.

5. Sashimi


Ẩm thực Nhật Bản, 7 loại SUSHI đặc trưng cho văn hóa ẩm thực Nhật bản

là một loại cá sống thái lát phục vụ trên một đĩa với củ cải thái nhỏ và đồ trang trí khác. Nó thường được phục vụ như một món khai vị và đồ uống. Chirashi bao gồm sashimi và rau xắt nhỏ được sắp xếp trên một bát cơm. Nó thường đi như một bữa ăn, ở mức giá dựa trên kích thước và chất lượng của các thành phần.

6. Oshi-zushi


Ẩm thực Nhật Bản, 7 loại SUSHI đặc trưng cho văn hóa ẩm thực Nhật bản

là một đặc sản của Osaka, được thực hiện bằng cách nhấn một lớp cá (có dấm và đôi khi nhẹ hấp) lên một lớp gạo trong một khuôn gỗ lớn. Sau đó, oshi-zushi được lấy ra khỏi khuôn và cắt thành miếng kích thước hình chữ nhật.

7. Inari-zushi


Ẩm thực Nhật Bản, 7 loại SUSHI đặc trưng cho văn hóa ẩm thực Nhật bản

là lúa và rau xắt nhỏ nhồi vào một cái túi của đậu phụ rán, nó đôi khi có thể được tìm thấy trong quán ăn ngoài trời, cửa hàng tạp hóa và cửa hàng bách hóa.
Tìm hiểu văn hóa Nhật Bản qua nghệ thuật xếp giấy Origami

Tìm hiểu văn hóa Nhật Bản qua nghệ thuật xếp giấy Origami

Nghệ thuật xếp giấy Nhật Bản ra đời vào thời gian nào? không có câu trả lời chính xác. Nhưng ai cũng hiểu rằng công nghệ sản xuất giấy từ Trung Quốc đã du nhập vào Nhật thế kỷ thứ 7 và hình thành một nền văn hóa giấy với vật liệu giấy phong phú, chất lượng cao (gấp mở nhiều lần không rách, mềm, bền và đẹp… Đó chính là loại giấy mà người Nhật vẫn tự hào có một không hai trên thế giới với cái tên “Washi”). Chính từ đó, nghệ thuật xếp giấy độc đáo Origami của Nhật Bản ra đời.
Tìm hiểu văn hóa Nhật Bản qua nghệ thuật xếp giấy Origami

Tuy nhiên việc sắp xếp các lá thư, xếp giấy để gói các đồ vật… hẳn là đã có từ rất xưa. Đến thời kỳ phong kiến với nhiều lễ giáo hơn, văn hóa xếp giấy đạt đến bước phát triển nhảy vọt. Vào thời điểm đó, Origami đã không chỉ là trò chơi của trẻ em mà còn là thú vui của người lớn, và có rất nhiều tạp chí ra đời với những mẫu xếp giấy vô cùng phức tạp.

Tìm hiểu văn hóa Nhật Bản qua nghệ thuật xếp giấy Origami

         Mẫu origami có thể đơn giản như chiếc thuyền hay máy bay giấy chúng ta thường gặp, nhưng cũng có thể hết sức phức tạp như hình rồng, phượng, tháp Eiffel….Những mẫu origami phức tạp có thể dùng lá kim loại mỏng thay vì giấy thường để có thể giảm độ dày của mẫu gập. Origami hiện đại thay đổi rất nhiều, các mẫu thường được gấp khi ướt (gấp ướt) hoặc sử dụng vật liệu ngoài giấy và lá kim loại. Người Nhật xem origami như một phần văn hoá và truyền thống đất nước hơn là một hình thức nghệ thuật.
Tìm hiểu văn hóa Nhật Bản qua nghệ thuật xếp giấy Origami

         Một trong số những mẫu origami được biết tới nhiều nhất là hình con hạc. Con hạc là điềm tốt lành trong quan niệm của người Nhật. Truyền thuyết kể rằng ai gấp được 1000 con hạc giấy có thể biến điều ước thành thật. Sau câu chuyện về bé gái Nhật Sadako Sasachi năm 1955, hình ảnh hạc giấy cũng trở thành một biểu tượng của hoà bình. Từ những bức tranh cổ còn được lưu truyền thì vào những năm 1700, Hạc (oritsuru) và các loại thuyền là những vật phổ biến được gấp và trang trí. Từ đó cho đến khỏang 100 năm sau các cuốn sách chuyên môn về Origami đã được in ấn và xuất bản, chứng tỏ một văn minh xếp giấy đã đạt được đến trình độ cao, đa dạng. Trong khi đó, vào khỏang thế kỉ 12 khi phương pháp chế tạo giấy được truyền sang Châu Âu, và một nghệ thuật xếp giấy độc lập đã được hình thành song vẫn không trở thành một nét văn hóa với bề dày về ảnh hưởng cũng như mức độ phát triển như Nhật.
       Vào thời Minh Trị (Meiji), Origami được đưa vào các trường mẫu giáo thành một môn học dưới ảnh hưởng về phương pháp giáo dục của nhà giáo dục học người Đức Frebel (1782-1852). Các phương pháp xếp giấy của châu Âu cùng sự phát triển theo nhiều hướng khác nhau đã khiên cho nghệ thuật xếp giấy ngày càng phong phú. Chỉ ở thời Meiji đã có rất nhiều những tác giả vô danh tạo ra nhiều mẫu hình mới. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng chỉ gấp theo những mẫu có sẵn không không mang tính sáng tạo nên vào thời Đại chính(Taisho) khi giáo dục được đưa theo hướng sáng tạo thì Origami bị bỏ rơi.

Tìm hiểu văn hóa Nhật Bản qua nghệ thuật xếp giấy Origami

       Tuy nhiên lật lại bề dày lịch sử của Origami, cùng với hiện tại,với không ít những tác phẩm mới, tính chất giáo dục của Origami cũng đã được xem xét lại và được công nhận về khả năng phát triển một cách đa dạng. Và ngày nay origami đang mở rộng tầm ảnh hưởng ra tầm thế giới, không chỉ giới hạn là một thú vui mà còn được nghiên cứu phục vụ cho các mục đích khoa học khác bởi nhiều tổ chức và cá nhân. Có thể nói Origami cũng như nhiều từ tiếng Nhật khác như Sake, Shushi, Kimono… đã được quốc tế hóa để khi nhắc đến ai cũng hiểu đó là một đặc trưng của văn hóa Nhật, không lẫn vào đâu được. Và dù bây giờ nghệ thuật xếp giấy đã phát triển vượt biên giới, mang lại niềm say mê cho biết bao nhiêu người trên toàn thế giới, nhưng người ta vẫn trân trọng gọi nó bằng cái tên giản dị Origami như một sự tưởng nhớ đến cái nôi cho một sự hình thành và phát triển một môn nghệ thuật độc đáo.

Tìm hiểu văn hóa Nhật Bản qua nghệ thuật xếp giấy Origami

 Chính những ưu điểm đỉnh cao này đã giúp đưa loại hình nghệ thuật dân gian này vượt ra khỏi biên giới Nhật Bản, đến với mọi người, không phân biệt già, trẻ, hay sang, hèn. Các câu lạc bộ gấp giấy đã được thành lập ở nhiều quốc gia trên khắp các châu lục, trong đó có Việt Nam. Bên cạnh đó, nhiều triển lãm hay các cuộc thi về origami cũng được tổ chức trên phạm vi toàn thế giới.

Tìm hiểu về núi phú sỹ Nhật Bản qua loạt ảnh thiên nhiên (FUJI SAN)

Tìm hiểu về núi phú sỹ Nhật Bản qua loạt ảnh thiên nhiên (FUJI SAN)


Một trong những địa danh nổi tiếng Nhật bản được nhắc đến nhiều nhất là núi Phú Sỹ một trong
những kỳ quan thế giới và là niềm tự hào của người dân Nhật Bản.

núi Phú Sỹ một trong những kỳ quan thế giới và là niềm tự hào của người dân Nhật Bản.

Núi Fuji hay còn gọi là núi Phú Sĩ, thuộc tỉnh Shizuoka, cách Tokyo không đầy 100km về phía Tây Nam Nhật bản. Phú Sĩ là ngọn núi lửa cao nhất Nhật Bản (3776m) với hình chóp nón trông rất hùng vĩ. Người ta nói rằng, tên của ngọn núi này bắt nguồn từ động từ thổi bật ra" (fuchi) trong ngôn ngữ của người Ainu. Núi Phú Sĩ đã phun trào ít nhất 10 lần kể từ thế kỷ 18. Cho đến nay gần 300 năm đã trôi qua kể từ lần phun trào gần nhất của nó vào năm 1707. Tro bụi, dung nham tung lên hàng trăm km, che phủ cả Tokyo, đồng thời tạo cho ngọn núi này cái đỉnh chóp tuyệt vời như ngày nay. Diện tích của núi vào khoảng 90.76km2. Lòng chảo phía trong là dấu tích của miệng núi lửa rộng khoảng 500m, sâu 200m. Hiện nay, núi Phú Sĩ là ngọn núi lửa đã chết, nhưng gần đây vẫn có tin đồn rằng nó có khả năng hoạt động trở lại.

Tìm hiểu về núi phú sỹ Nhật Bản qua loạt ảnh thiên nhiên (FUJI SAN)
Tìm hiểu về núi phú sỹ Nhật Bản
Với người dân Nhật núi Phú Sĩ trở thành "ngọn núi thiêng", "ngọn núi thần" che chở cho nước Nhật, đem đến sự tốt lành, may mắn: thứ nhất Fuji, thứ nhì Naka, thứ ba Nasu. Có nghĩa là, vào đêm mùng một Tết, may mắn nhất là những ngưòi nằm mơ thấy núi Phú Sĩ, thứ nhì là chim ưng,thứ ba là cà tím. Nhiều người sùng bái núi Phú Sĩ đã thành lập một tổ chức tín ngưỡng ngọn núi này gọi là Fuiiko. Việc trèo lên ngọn núi được coi là công việc thiêng liêng mà ai cũng cố gắng được làm một lần trong đời. Những người leo núi thường bắt đầu cuộc hành trình từ buổi chiều, xuyên qua đêm để rồi sáng hôm sau được ngắm nhìn cảnh mặt trời mọc ở trên núi. Từng đoàn người nối đuôi nhau trong màn đêm, ánh đèn pin rực rỡ tiến thẳng lên đỉnh núi, tưởng chừng như một con rồng khổng lồ đang cuộn mình.

Núi phú sỹ biểu tượng của người Nhật Bản

Lên đỉnh có 5 đường chính: Kawaguchiko, Subashiri, Fujinomiya, Fuji-Yoshida và Gotemba. Trong khi đi lên đỉnh mất từ 5 đến 9 tiếng thì khi xuống chỉ mất 3 tiếng. Thời tiết có lúc khắc nghiệt, con đường dài khó khăn, hiểm trở, song bước chân tìm về nguồn cội không lúc nào ngơi nghỉ. "Nhật Bản không có núi Phú Sĩ, tựa như nước Mỹ không có "Nữ Thần Tự Do"-người Nhật Bản nói trong niềm tự hào, phấn khởi.

Tìm hiểu về núi phú sỹ Nhật Bản qua loạt ảnh thiên nhiên (FUJI SAN)

Ngày nay, khí hậu quanh vùng núi rất ổn định. 5 cái hồ lớn ở đây lại càng làm cho cảnh quan ngoạn mục hơn. Hàng năm, núi Phú Sĩ được mở cửa trong vòng hai tháng. Từ ngày 1 tháng 7 người ta làm lễ mở cửa ở núi Gogome thuộc cửa Yoshida. Ngày 31 tháng 8 mọi hoạt động chính thức kết thúc, nhưng trước đó vào ngày 26, 27 lễ đốt la đóng cửa núi đã được tiến hành. Ðây là thời gian có khí hậu lí tưởng nhất ở núi Phú Sĩ. Trên đỉnh núi gió nhẹ, nhiệt độ từ 5oc đến 6oc. MặC dù thời gian mở cửa không nhiều, song hàng năm cũng vẫn lôi cuốn khoảng 25 triệu người Nhật Bản và khách nước ngoài đến tham quan, du lịch ở đây.
Nhật Bản, văn hóa ứng xử và những điều cấm kị khi giao tiếp trong xã hội Nhật bản

Nhật Bản, văn hóa ứng xử và những điều cấm kị khi giao tiếp trong xã hội Nhật bản

Nhật Bản là một trong những đất nước khá thận trọng và hà khắc trong việc giao tiếp và ứng xử. Người Nhật luôn ý thức và cân nhắc trước khi hành động hay khi giao tiếp với ai đó họ luôn dè dặt, và cẩn thận trong lời nói. Thật khó chịu khi phải giả dối để làm hài lòng đối phương, tuy nhiên đó là nét đặc trưng trong văn hóa ứng xử cuả người Nhật.
Rất nhiều ý kiến khác nhau đề cập đến vấn đề "làm thế nào để giao tiếp tốt với người Nhật ? làm thế nào để ứng xử cho phù hợp với văn hoá Nhật bản?". Có hàng tá câu trả lời cho bạn, tuy nhiên có một số vấn đề chúng ta cần tham khảo và thống nhất với nhau trên quan điểm khách quan để tìm ra câu trả lời chính xác và thiết thực nhất.

Nhật Bản, văn hóa ứng xử và những điều cấm kị khi giao tiếp trong xã hôị Nhật bản
Nghi thức chào hỏi ở Nhật Bản

Quy tắc ứng xử chung trong xã hội Nhật Bản

  • Ngày mưa, hai người cầm ô đi đối diện nhau sẽ nghiêng ô ra ngoài để tránh nước giọt sang ướt người đối diện. (ở đâu cũng nên làm vậy chứ không riêng gì ở Nhật)
  • Tuyệt đối phải đúng giờ. Việc không hẹn mà tới, trễ hẹn… là việc không nên làm ở Nhật, tuyệt đối nên đúng giờ giấc.
  • Khi không may bị người khác dẫm phải chân thì cũng nói xin lỗi (phép lịch sự người nhật thường làm vậy)
  • Qui tắc 7/3: dành 3 phần đường mình đi còn 7 phần dành cho xe khi khẩn cấp. (ưu tiên xe cứu thương và cảnh sát)
  • Những thói quen như: rung đùi, khạc nhổ v.v. được cho là rất bất lịch sự (Ở đâu cũng vậy)
  • Không được tự tiện cho số điện thoại, email, địa chỉ … của người khác mà không xin phép trước. (Đây là điều cấm kị bạn nên lưu ý khi và cân nhắc)

Ứng xử nơi công cộng


  • Trên một cầu thang cuốn tránh đứng cản đường đi của người khác. Hầu hết mọi nơi ở Nhật, bên trái dành cho người đứng, bên phải dành cho người vội. Còn ở Osaka thì ngược lại, bình thường đứng bên phải, người vội đi bên trái. Lí do là ở Osaka trước có rất nhiều khách nước ngoài đến du lịch và họ thường không biết quy định đi bên trái của Nhật và để chỉ dẫn cho họ đi theo thói quen của Nhật thì rất khó khăn chính vì vậy mà người Nhật ở Osaka đã thay đổi theo cách của người nước ngoài đến du lịch. Người Nhật rất hay đeo khẩu trang, đặc biệt vào mùa cúm hoặc do bị dị ứng phấn hoa. Do đó việc đeo khẩu trang khi nói chuyện không bị coi là bất lịch sự. Ngược lại, nếu bạn bị ốm (cảm cúm, sổ mũi) hãy đeo khẩu trang để tránh lây nhiễm cho người khác.
  • Không nói to, cười đùa, bật nhạc ầm ĩ. (là điều người Nhật rất ghét, nhưng người nước ngoài hay mắc lỗi này, nhất là Việt Nam)
  • Mùi cơ thể cũng là một điểm cần chú ý vì ở Nhật việc sử dụng các phương tiện giao thông công cộng rất phổ biến.
  • Người cùng giới đi ngoài đường không choàng vai bá cổ nhau.(làm vậy không hay cho lắm, tuy nhiên tùy vào các góc độ khác nhau, mà ứng xử cho phù hợp)

Ứng xử trong nơi ở


Nhật Bản, văn hóa ứng xử và những điều cấm kị khi giao tiếp trong xã hôị Nhật bản
Ứng xử trong nơi ở trong cuộc sống ở nhật bản

Ở Nhật, nhà ở thường là chung cư hoặc nằm sát gần nhau, tường khá mỏng nên rất dễ gây những tiếng động ảnh hưởng đến hàng xóm. Ban đầu bạn có thể chỉ nghe thấy tiếng gõ nhắc nhở nhẹ nhàng hoặc nụ cười trừ. Nhưng nếu không chú ý bạn có thể bị chủ nhà mời đi chỗ khác ở hoặc thậm chí có thể sẽ gặp rắc rối với cảnh sát. Vì vậy, hãy hạn chế tối đa tiếng ồn nhất là khi đã khuya: Những điều bạn nên chú ý:

  • Nhảy, đi lại mạnh trên sàn nhà.
  • Sập cửa khi ra vào.
  • Bật nhạc to.
  • Tụ tập bạn bè.
  • Tiếng xả nước, tắm lúc nửa đêm.
  • Dùng máy giặt, máy hút bụi vào buổi buổi đêm hoặc sáng sớm.

Nhiều nơi ở không cho phép nuôi thú nhỏ hoặc bạn sẽ phải trả thêm một khoản tiền nhất định để nuôi. Hãy xem kỹ hợp đồng thuê nhà hoặc hỏi văn phòng bất động sản trước khi mang thú nhỏ về nhà. Vứt rác đúng ngày,giờ và vứt vào đúng chỗ quy định. Một số nơi có vài chỗ tập kết rác cạnh nhau nên hãy hỏi nhân viên của văn phòng bất động sản xem nên vứt vào chỗ nào cho đúng. Làm sai một trong những quy định trên có thể sẽ bị người dân xung quanh nhắc nhở, thậm chí có thể bị phạt tiền.

Ứng xử khi trên các phương tiện công cộng


Hầu hết trên các tàu và xe bus đều có những chỗ ngồi ưu tiên dành cho người già, người tàn tật, phụ nữ có mang hoặc có trẻ nhỏ. Khi không có ai bạn có thể ngồi nhưng hãy mạnh dạn đứng dậy nhường chỗ cho những người nói trên. Hạn chế tối đa việc nói chuyện điện thoại. Nếu không có cách nào khác hãy cố gắng nói nhỏ. Khi lên tàu, xe bus hãy chờ cho những người xuống tàu/xe ra hết rồi mới lên.

Ứng xử trong ăn uống


Nhật Bản, văn hóa ứng xử và những điều cấm kị khi giao tiếp trong xã hôị Nhật bản
Ứng xử trong ăn uống ở nhật bản

Người Nhật khá cầu kì trong nấu nướng nhưng cũng sẵn sàng ăn tạm một món ăn nhanh vì tiết kiêm thời gian. Khác nhau về văn hóa dẫn đến nhiều món ăn của người Nhật cũng không hợp khẩu vị của người Việt và ngược lại. Việc khen một món ăn (dẫu không ngon) trở thành tính cách của họ trong giao tiếp. Vì vậy cũng cần chú ý khi mời người Nhật ăn. Việc tìm hiểu một món ăn công phu cũng là tìm hiểu thêm về văn hóa Nhật Bản.
Ngược lại với ở Việt Nam, ở Nhật (và ở Hàn Quốc) khi ăn các món bún, mỳ, miến mà phát ra tiếng “sụp soạp” thì không bị coi là bất lịch sự. Trái lại; Người ta quan niệm tiếng “sụp soạp” đó tạo cảm giác ngon miệng. Giống như ở Việt Nam, khi ăn cơm nên cầm bát cơm trên tay chứ đừng đặt trên bàn rồi cúi đầu xuống ăn.

  • Khi ngồi trong bàn ăn, không nên tự rót nước/rượu cho bản thân mà hãy rót cho người bên cạnh.
  • Trong các nhà hàng ăn tự chọn (buffet), món ăn tự chọn. Đừng lấy thật nhiều rồi bỏ thừa, như thế sẽ rất không hay, thậm chí bạn có thể bị phạt tiền.
  • Ở Nhật không có văn hóa tip (tiền boa). Việc bạn boa tiền có thể gây khó xử cho nhân viên nhà hàng do một số nơi có quy định nhân viên không được nhận tiền boa.
 Về trang phục

Nhật Bản là nơi khá tự do về ăn mặc, thời trang. Quần áo cũng đẹp và rẻ nên thay đổi theo mùa khá dễ dàng. Hãy mặc đồ sạch sẽ, gọn gàng, hợp phong cách.
Ở Nhật, phụ nữ thường ăn mặc kín đáo, hầu như không mặc hở ngực hoặc lưng. Duy chỉ có váy ngắn và quần ngắn thì không sao.

Trong giao tiếp


Việc chào hỏi nhau là một nghi thức không thể thiếu ở Nhật. Để đánh giá một con người, người ta thường đánh giá mức cơ bản nhất là biết chào hỏi hay không. Việc cảm ơn và xin lỗi trong mọi trường hợp là điều bình thường ở xã hội Nhật.

  • Không hỏi tuổi người đang nói chuyện với mình.
  • Không dùng ngón tay chỉ vào người khác.
  • Ngoài người yêu, vợ, chồng, con ra, không nên động chạm vào người đang nói chuyện với mình kể cả lúc thân mật cũng như lúc giận giữ, cãi cọ.

Văn hóa tặng quà


Nên tránh tặng những món quá đắt tiền, xả xỉ. Tốt nhất hãy tặng những món quà hữu dụng, có giá trị vừa phải hay những món quà thủ công, mỹ nghệ mang từ Việt Nam sang. Khi đang nhờ người Nhật một việc gì đó, tuyệt đối không được tặng quà. Người Nhật có tính tự trọng rất cao, làm như vậy sẽ bị coi như là “hối lộ” vậy. Thêm nữa, họ rất ngại việc nhận quà rồi mà lỡ không thực hiện được điều được nhờ.

Đề xuất tìm kiếm trên google:
Con người Nhật Bản
Văn hóa Nhật Bản
Đất nước Nhật Bản
Văn hóa ứng xử trong xã hội Nhật Bản
Nhật Bản, nét đặc trưng riêng không thể nào nhầm lẫn

Nhật Bản, nét đặc trưng riêng không thể nào nhầm lẫn


Tuy là một quốc gia rất khan hiếm tài nguyên thiên nhiên nhưng Nhật Bản luôn là một quốc gia đứng đầu thế giới về khoa học công nhệ và đứng thứ 2 thế giới về tổng sản phẩm trong nội địa . Là đất nước đứng thứ 5 trên thế giới trong lĩnh vực đầu tư cho quốc phòng; xếp thứ 4 thế giới về xuất khẩu và đứng thứ 6 thế giới về nhập khẩu. Quốc gia này là thành viên của tổ chức Liên Hợp Quốc .

Nhật Bản, nét đặc trưng riêng không thể nào nhầm lẫn
Kyoto Japan

Văn hóa người Nhật


Văn hóa người Nhật
Văn hóa người Nhật
Tập thể đóng một vai trò quan trọng đối với người Nhật. Nó được thể hiện ngay từ trong cách xưng hô với người ngoài khi nói chuyện. Trong công việc người Nhật thường gạt cái tôi lại để đề cao cái chung, tìm sự hòa hợp giữa mình và những người xung quanh. Các tập thể có thể cạnh tranh với nhau rất gay gắt song cũng có lúc họ lại bắt tay với nhau để có thể đạt được mục đích chung như để đánh bại đối thủ nước ngoài. Vì vậy mà điều tối kỵ là làm mất danh dự của tập thể. Một học giả nước ngoài nghiên cứu về Nhật Bản đã đối lập “văn hóa hổ thẹn” của người Nhật với “văn hoá tội lỗi” của phương Tây.

Cấp bậc và địa vị trong xã hội Nhật Bản


Ý thức tôn trọng thứ bậc có lẽ đã có từ lâu trong đời sống của người Nhật. Thái độ nhún mình trước những người có địa vị, quyền chức cũng có ở một số nước khác thời cận đại nhưng đặc biệt ở Nhật cho đến ngày nay vẫn còn đậm nét. Tập quán này được nhấn mạnh trong hơn 250 năm dưới thời Tokugawa. Ngày nay ý thức tôn trọng thứ bậc vẫn được thể hiện trong đời sống hàng ngày. Ví dụ trong phòng họp, người có chức vụ thấp nhất sẽ ngồi gần cửa ra vào, người có chức vụ càng cao thì càng ngồi gần phía bên trong. Hoặc trong các buổi tiệc tổ chức tại nhà hàng một cách đột xuất thì mọi người đều biết vị trí của mình mà không cần có sự hướng dẫn nào khác. Sắc thái tôn ti trật tự trong xã hội Nhật Bản thể hiện rất rõ trong ngôn ngữ xưng hô và hình thức chào hỏi đối với từng đối tượng xã hội cụ thể. Đối với người lớn tuổi hay người có địa vị thì phải dùng ngôn ngữ kính trọng (sonkeigo), khi nói về mình và những người trong gia đình mình thì dùng ngôn ngữ khiêm nhường (kenjogo).
Chính từ cơ cấu này mà tinh thần đoàn kết và lòng trung thành của người Nhật được phát sinh, và nhờ đó mà việc động viên cho sự thực hiện mục tiêu của toàn thể tập đoàn là tương đối dễ dàng.

Sự sáng tạo và phong cách thẩm mỹ

Ấn tượng đầu tiên của bất kỳ ai lần đầu đến thăm Nhật Bản là ngạc nhiên và thán phục về óc thẩm mỹ của người Nhật, từ cách trang trí nhà cửa sắp, xếp đồ đạc trong gia đình hay cách bài trí bữa cơm đều khiến cho mọi người có cảm giác tiếp cận một sự tinh tế, một óc thẩm mỹ cao. Nhưng óc thẩm mỹ của người Nhật không chỉ biểu hiện qua các hiện tượng bên ngoài mà còn qua lối suy nghĩ và cung cách làm việc của họ hàng ngày, hay nói rộng ra là nhân sinh quan của họ. Một người đan quạt tre ngắm đi ngắm lại xem cái quạt của mình làm đã cân đối chưa, có cần phải chau chuốt gì không, mặc dù khi làm như vậy thì anh ta sẽ mất nhiều thời gian hơn, đồng nghĩa với việc lợi nhuận thu về được ít hơn, song đối với người dân Nhật Bản ngoài mục đích lợi nhuận thì họ còn muốn đạt được một mục tiêu khác không kém phần quan trọng - đó là cảm giác thoải mái khi hoàn thành mỹ mãn một công việc dù là rất nhỏ. Họ luôn tìm kiếm cái đẹp trong công việc của mình, người Nhật nổi tiếng là người làm việc cần mẫn, xem công việc của công ty như là công việc của mình, luôn tận tâm tận sức, nhiều khi họ làm việc không phải vì lợi ích cá nhân của mình, họ xem công việc của họ không những là “hoạt động kinh tế” mà còn là “hoạt động thẩm mỹ”.

Trang phục người Nhật


Trang phục người Nhật
Trang phục người Nhật
Ngày nay ở Nhật Bản, nam nữ ở mọi lứa tuổi sống ở các thành phố, thị trấn và nông thôn đều mặc quần áo kiểu phương Tây vì nó thuận tiện cho sinh hoạt hàng ngày. Chỉ có một số ít người già làm những nghề đặc biệt mới mặc áo kimono truyền thống và họ mặc chủ yếu vào dịp lễ hội, đôi khi người ta cũng mặc kimono ở nhà cho thoải mái. Tuy nhiên, áo kimono cũng không mất đi vai trò quan trọng của nó như là một phần của văn hoá Nhật Bản. Đặc biệt là phụ nữ thường gắn áo kimono với truyền thống dân tộc và thích mặc nó vào những dịp đặc biệt.
Theo truyền thống, áo kimono được may bằng vải dệt từ các nguyên liệu tự nhiên như vải lanh, bông, lụa. Kimono là một chiếc áo choàng được giữ cố định bằng một vành khăn rộng cuốn chặt vào người cùng với một số dây đai và dây buộc, ống tay áo dài và rộng thùng thình. Kimono có hình dạng khác hẳn với chiếc áo choàng kiểu cổ của Trung Quốc, vốn thường bị nhầm lẫn trong tranh minh hoạ ở các sách của phương Tây. Kimono của nam giới có vành khăn đơn giản và hẹp hơn. Áo kimono cho phụ nữ thường có các hoạ tiết hoa, lá và các biểu tượng thiên nhiên khác, phản ánh tình yêu thiên nhiên của người Nhật Bản. Tuỳ theo tuổi tác của người mặc mà màu sắc được chú ý rất nghiêm ngặt, những màu có gốc sáng, đặc biệt là màu đỏ, được dùng cho trẻ em và phụ nữ trẻ chưa chồng, trái hẳn với một số nước phương Tây ở đó màu lam nhạt được coi là thích hợp với trẻ em. Ở một số nước, màu đỏ và những màu sáng khác thường được coi là những màu thích hợp nhất đối với phụ nữ trưởng thành, nhưng ở Nhật Bản, nhất là khi mặc kimono, màu sắc chỉ hạn chế ở những màu dịu, không sặc sỡ. Họ cũng không mặc áo màu đen như những phụ nữ đã lập gia đình ở một số nước Latinh. Xu hướng này thậm chí còn được thể hiện ở trang phục kiểu phương Tây mà hầu hết phụ nữ Nhật Bản hiện hay mặc. Các thiếu nữ thường mặc những quần áo có màu sáng, còn người già thì dùng những màu dịu hơn tuỳ theo độ tuổi.
Trong những năm gần đây, áo kimono được làm bằng vải tổng hợp, vì vậy những người không có tiền mua lụa cũng có thể mua được. Áo kimono, khăn thắt lưng và những đồ kèm theo làm bằng lụa được bán với giá cực kỳ đắt nên phụ nữ trẻ chỉ có thể mặc vào những dịp đặc biệt như đám cưới, đám tang, lễ tốt nghiệp hoặc lễ trưởng thành (khi tới 20 tuổi) v.v... Qua trang phục kiểu phương Tây hàng ngày ta thấy hầu hết các xu thế mốt của châu Âu và châu Mỹ đã được du nhập nhanh chóng vào các trang phục của thanh niên Nhật Bản. Nhật Bản hiện là thị trường lớn của các hãng thời trang hàng đầu thế giới.

Cuộc sống,gia đình người Nhật

Cuộc sống gia đình người Nhật

Hầu hết các cặp vợ chồng trẻ Nhật Bản hiện nay có một hoặc hai con, sống trong các căn hộ không được thoải mái lắm về diện tích. Sau khi kết hôn, phần lớn họ ra ở riêng. Trung bình muốn có một mái ấm của riêng mình, họ phải bỏ ra số tiền từ 3 đến 5 tỷ đồng Việt Nam. Chính vì vậy mà nhiều cặp vợ chồng trẻ sống trong các căn hộ cho thuê, hoặc nhà của công ty. Theo thống kê năm 2000, tỷ lệ có nhà riêng là 61,3%, và số tiền để dành trung bình là gần 10 triệu yên (khoảng 1,2 tỷ đồng Việt Nam). Tỷ lệ có 3 thế hệ trong một gia đình là 15%. Số nhà có phòng riêng cho trẻ con: 76%. Số người thuộc tầng lớp trung lưu: 88,5%. Tỷ lệ phụ nữ đi làm việc ở Nhật Bản ngày càng tăng. Tuy vậy, đa số họ đều nghỉ việc sau khi kết hôn hoặc sinh con. Họ thường đảm nhiệm các công việc của gia đình, không cần phải thuê người giúp việc. Các bà vợ thường nắm hầu bao gia đình và quyết định khoản tiền tiêu vặt hàng tháng của chồng. Vậy nhưng cả vợ lẫn chồng thường có tài khoản bí mật để chi tiêu vào việc riêng của mình. Những người đi làm việc ở công ty thường đi làm về rất muộn hoặc đi nhậu với bạn bè, đồng nghiệp vào buổi tối. Vì vậy, cảnh người chồng không cùng ăn tối với gia đình là điều rất bình thường. Những ông bố Nhật Bản có rất ít thời gian cho con cái và gia đình. Do phải đi làm xa, họ thường rời nhà khi con chưa thức dậy, và trở về khi chúng đã đi ngủ. Nhân viên các công ty còn thường có những chuyến công tác dài ngày, hoặc thuyên chuyển công việc trong và ngoài Nhật Bản. Do việc học hành của con cái, hay trông nom bố mẹ già mà không ít người phải chấp nhận sống độc thân xa gia đình trong thời gian dài.

Vì lý do này hay lý do khác, ngày càng nhiều thanh niên Nhật chọn cách sống một mình, và sự lựa chọn đó đang dần hình thành tương lai của xã hội Nhật Bản. Hiện có tới 25% nam và 16% nữ thanh niên xứ Phù Tang ở độ tuổi 30 quyết định sống độc thân và không sinh con. Niềm đam mê của một bộ phận người trẻ tuổi thành đạt Nhật Bản giờ đây là thức ăn ngon, rượu và công việc. Xu hướng này ngày càng gia tăng trong một đất nước mà hôn nhân và gia đình vốn là giá trị truyền thống lâu đời

Ngôn ngữ Nhật Bản


Ngôn ngữ Nhật Bản
Ngôn ngữ Nhật Bản
Tiếng Nhật là một thí dụ hiếm có của mối tương quan dân tộc-lãnh thổ-ngôn ngữ rõ nét và đơn nhất. Mặc dù có những khác nhau nhỏ giữa các tiếng địa phương nhưng xét trên toàn cục, về mặt ngôn ngữ học, có sự thống nhất ở những điểm chủ yếu. Tuy người Nhật thường cho rằng ngôn ngữ của họ khó đối với người nước ngoài, nhưng một hệ thống ngữ âm tương đối đơn giản và các quy tắc văn phạm khá linh hoạt làm cho tiếng Nhật trở thành dễ học hơn so với một số ngôn ngữ khác, ít nhất là cho mục đích hội thoại, dù chữ viết tượng hình và các dạng chữ viết khác gây khó khăn cho việc đọc và viết.
       Về nguồn gốc ngữ văn của ngôn ngữ, các học giả có những nhìn nhận rất khác nhau. Một số học giả cho rằng tiếng Nhật thuộc họ Ural-Altaic ở phương Bắc cùng với tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và Triều Tiên, trong khi đó một số học giả lại khẳng định rằng nó là một thành viên của họ Tây Tạng-Miến Điện hoặc Mã lai-Polynexia ở phương Nam và những người khác lại khẳng định rằng nó có xuất xứ từ sự pha trộn của cả hai.

      Từ vựng tiếng Nhật đã được làm giàu bằng cách vay mượn từ các ngôn ngữ khác: của Trung Quốc thời xưa, của Bồ Đào Nha và Hà Lan trong những thế kỷ gần đây, và của các ngôn ngữ phương Tây từ thời Minh Trị khi nước Nhật tiếp xúc nhiều với thế giới phương Tây. Việc Nhật hoá đã cho ra đời nhiều từ mới từ những từ vay mượn và xu hướng này đang tăng mạnh trong những năm gần đây.
Tiếng Nhật được coi là có sự mô tả tỉ mỉ hơn các ngôn ngữ khác đối với các phạm trù như lúa gạo, thực vật, cá và thời tiết. Điều này dường như bắt nguồn từ ý thức đã ăn sâu và bền chặt về các nguồn thức ăn cần thiết để duy trì cuộc sống trong điều kiện khí hậu gió mùa. Ngược lại, những từ liên quan đến các thiên thể, đặc biệt là các vì sao lại rất ít. Người Nhật mặc dù là dân sống ở đảo nhưng lại không đi lại được trên biển bằng việc quan sát thiên văn.
       Một nét nổi bật của tiếng Nhật là các hình thức biểu đạt theo cấp độ khác nhau tuỳ theo tình huống. Tiếng Nhật có cách nói thông thường, khiêm nhường hoặc kính trọng, tuỳ thuộc vào mức độ kính trọng cần thiết đối với người đối thoại, vào các dịp và các yếu tố khác. Động từ, danh từ và các từ khác thay đổi hoàn toàn hoặc một phần theo cấp độ được dùng. Kính ngữ vẫn còn đóng vai trò quan trọng trong xã giao, cũng như sự khác nhau giữa từ ngữ và cách nói của nam và nữ.
Hệ thống chữ viết của Trung Quốc dường như được đưa đầu tiên vào Nhật Bản qua Triều Tiên, có thể vào khoảng thế kỷ III, sau hệ thống chữ cái Latinh được đưa vào Anh hai hoặc ba thế kỷ. Người Nhật đã chọn loại chữ viết tượng hình này để biểu đạt ngôn ngữ của mình. Điều này có thể thực hiện được vì chữ tượng hình, như tên gọi của nó, biểu hiện ý nghĩa hơn là âm thanh. Do âm của các từ tiếng Nhật không giống như âm của các từ tiếng Trung Quốc có cùng nghĩa nên cần phải xác lập phương pháp thể hiện âm tiếng Nhật. Việc này được thực hiện bằng cách tạo nên những mẫu chữ cái đơn giản trên cơ sở sao chép hoặc sửa đổi một số chữ tượng hình và gán cho mỗi chữ cái một âm cố định. Bằng cách này, hai bảng chữ cái ghi âm riêng biệt đã ra đời và hiện nay vẫn đang được sử dụng song song. Vì vậy, tiếng Nhật được viết với sự phối hợp hai kiểu ký tự khác nhau - trước tiên là chữ kanji hay là Hán tự, là những chữ tượng hình biểu đạt nghĩa, và tuỳ theo các chữ kanji ghép cùng hay yếu tố khác mà có thể có những cách phát âm khác nhau. Thứ hai là chữ kana hay các ký hiệu ngữ âm được dùng để hướng dẫn việc phát âm đúng những chữ kanji hiếm hoặc lạ, hoặc để chỉ những biến đổi về văn phạm v.v... Bảng chữ cái nét mềm hiragana phục vụ hai mục đích đầu tiên này, còn bảng chữ cái nét cứng katakana được dùng để phiên âm các từ ngoại lai. Mặc dù hệ thống chữ tượng hình có thể truyền đạt một ý nghĩa đầy đủ chỉ bằng một ký tự, nhưng điều bất tiện là cần phải có một ký tự riêng để biểu thị mỗi ý nghĩa. Vì vậy ở Nhật Bản trong thời kỳ trước chiến tranh, số ký tự được dùng phổ biến cho các mục đích hàng ngày là khoảng 4000 ký tự. Từ thời kỳ chiến tranh, để phục vụ cho giáo dục học đường và các mục đích khác, số ký tự được chính thức dạy trong chương trình giáo dục bắt buộc và dùng trong báo chí v.v... được giới hạn ở 1850 ký tự. Nhiều sách xuất bản ở nước ngoài nhấn mạnh đến khó khăn của học sinh Nhật phải học một số lượng lớn các ký tự này. Tuy nhiên, trên thực tế khi đã nắm vững những nguyên tắc cơ bản hình thành các ký tự thì việc học trở nên dễ dàng hơn là người ta tưởng.

Về ẩm thực Nhật



Tìm hiểu về ẩm thực Nhật
Ẩm thực Nhật Bản
Đồ ăn thường ngày của người Nhật Bản chủ yếu là cơm, cá, rau. Thịt ít có trong thành phần bữa ăn. Điều này đôi khi được các sách nước ngoài gán cho là do ảnh hưởng của đạo Phật. Mặc dù những điều dạy của đạo Phật cũng có ít nhiều tác động đến vấn đề này trong một thời gian dài, nhưng nguyên nhân quan trọng hơn cả là do quỹ đất nông nghiệp hạn hẹp nên người ta phải tập trung đất cho việc sản xuất ngũ cốc cần thiết, khiến đất dành cho chăn nuôi gia súc rất ít ỏi.Chất đạm và chất khoáng cần thiết được lấy chủ yếu từ cá và rong biển. Từ những nguyên liệu cơ bản này, người Nhật Bản đã sáng tạo ra các món ăn dân tộc bằng óc thẩm mỹ, sự khéo tay và khẩu vị tinh tế. Mùi vị các món ăn Nhật Bản đơn giản hơn so với hầu hết các món ăn của phương Tây. Đồ ăn của Nhật Bản chú trọng đến đặc sản theo từng mùa và sự lựa chọn các bát đĩa đựng thức ăn một cách nghệ thuật.
     Sự tiếp xúc ngày một tăng với các nước khác trên thế giới kể từ thời Minh Trị đã làm thay đổi bữa ăn của người Nhật Bản. đặc biệt là từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi nền kinh tế thịnh vượng và mức sống đã được nâng lên. Việc tiêu thụ các sản phẩm sữa, thịt cũng như bánh mì và các sản phẩm làm từ bột mì đã tăng mạnh trong khi đó tiêu thụ gạo và các thức ăn truyền thống giảm dần. Đã có sự Âu hoá rộng rãi trong khẩu phần ăn thường ngày như có thể thấy trong các sơ đồ về lượng thực phẩm được tiêu thụ.

Tìm hiểu nhanh đất nước Nhật Bản qua video


Copyright © 2014 WWW.SEOSORA.VN All Right Reserved
// Nội dung được cấp phép theo Giấy phép Creative Commons. Ghi rõ nguồn khi phát hành lại nội dung trên web này